Hãy đăng ký thành viên để có thể dễ dàng trao đổi, giao lưu và chia sẻ về kiến thức đồ họa.
  1. Hãy đăng ký subscribe kênh Youtube mới của Việt Designer tại địa chỉ: Youtube.com/VietDesignerChannel để theo dõi các video về thiết kế đồ họa. Do trước đó kênh cũ bị Youtube quét không rõ lý do, trong thời gian chờ kháng cáo nếu các bạn thấy video trên diễn đàn bị die không xem được thì có thể vào kênh mới để tìm xem video sơ cua nhé.
    Loại bỏ thông báo

Phân loại Typeface

Chủ đề thuộc danh mục 'Tác phẩm đẹp - Tài liệu tham khảo Typography' được đăng bởi Đức Biks, 6/9/14.

Lượt xem: 33,235

  1. Đức Biks Thành viên cấp 1

    Chào mọi người hôm qua mình có dịch một bài về kết hợp các typeface, và hôm nay xin mang đến thêm một bài là phân loại typeface cho đủ bộ :)

    Bài viết có tên đầy đủ là Basic of type trên diễn đàn noupe.com :
    http://www.noupe.com/design/a-crash-course-in-typography-the-basics-of-type.html

    Mình có lược qua một số ý và chỉ dịch những phần mình thấy cần thiết nhất (do lười :3 )

    Mình có sự quan tâm nhẹ đến typo ứng dụng và logo lettering, có dịch thô gần hết PRATICALTYPOGRAPHY.COM, những nguyên tắc cơ bản nhất đến nâng cao cách sử dụng typo ứng dụng cho việc dựng web, và các tài liệu có định dạng văn bản (cứ cái nào có chữ là bản in gọi được là typo rồi :3 ) . Nên nếu bạn nào muốn trao đổi giao lưu, hay muốn chia sẻ những kiến thức cơ bản đến nâng cao về typo ứng dụng kiểu như : giãn dòng bao nhiêu thì đẹp, lùi vào đầu dòng bao nhiêu px, hay nên để letterspacing trong All caps thế nào thì cứ pm mình :)
    (http://practicaltypography.com/)

    Fb.com/biksence


    The Basics of Type
    By Cameron Chapman

    PHÂN LOẠI TYPEFACE

    Có rất nhiều cách để phân loại typeface và các loại type. Sự phân loại phổ thông nhất là sự phân loại theo kỹ thuật hay kiểu cách, nó gồm: Serif, San-Serif, Script, Display, v.v. Typeface cũng được phân loại theo thông số kỹ thuật, như là Tỷ lệ (Propotional) và Đơn cách (Monospaced) …

    Đầu tiên chúng ta cần phân biệt đơn về 2 khái niệm Typeface và Font. Typeface là một tập hợp các kí tự đánh máy và các chữ cái, đó là các chữ số, chữ cái, và những kí tự khác để chúng ta viết lên giấy hoặc đánh trên máy tính. Trong khi font là được định nghĩa một cách truyền thống là tập hợp hoàn chỉnh các kí tự bên trong một Typeface, có size và style riêng. Nói dễ hiểu ra thì một Typeface làm một cái niệm rộng hơn font, để tìm hiểu kỹ, các bạn có thể xem bài sau : http://forum.vietdesigner.net/threads/font-va-typeface.425/

    Serif

    Serif typefaces được gọi là “Serifs” được đề cập đến là việc có một nét nhỏ thêm vào phần thân chính của chữ. Serifs được dùng nhiều trong in ấn, hoặc dùng làm tiêu đề hoặc chữ đầu dòng. Khả năng đọc online của Serifs được tranh luận rất nhiều , một vài người làm thiết kế không thích việc sử dụng Serifs cho những phần văn bản dài.

    [​IMG]
    (Chữ Crimson là một typeface Serif)

    Trong việc phân loại Serif, có rất nhiều các type phụ khác (sub-type). Đơn cử là : Old Style Serifs (còn gọi là Humanist) là typeface cũ nhất trong dòng phân loại này, được phát minh khoảng những năm 1400. Đặc trưng của Typeface này là các phần chéo mỏng (phần mỏng nhất của chữ cái xuất hiện ở những nét góc cạnh hoặc bo tròn, mỏng hơn nhiều so với những nét thẳng hoặc nét ngang). Các Typefaces của nhóm này gồm có: Adobe Jenson, Centaur, và Goudy Old Style.

    [​IMG]
    (Adobe Jenson là một Old Style Serif typeface)

    Tiếp theo là Transitional Serifs được phát minh những năm 1700, và hầu như là một trong những phân loại typefaces được sử dụng phổ biến nhất. Times New Roman và Baskerville là 2 trong số đó, cũng như Calson, Georgia và Bookman. Sự khác biệt giữa các nét mỏng và nét dầy trong Transitional Serifs được thể hiện rõ ràng hơn là trong Old Style Serifs, nhưng lại kém hơn ở Modern Serifs

    [​IMG]
    (Baskerville là một Transitional Serif typeface)

    Modern Serifs, bao gồm các typefaces như là Didot và Bodoni, có sự tương phản rất rõ ràng giữa các nét mỏng và nét dầy, với có một nét mỏng căng ngang rất thanh làm Serif (làm chân các letter), (minimal brakets), nó được ra đời khoảng những năm 1700.

    [​IMG]
    (Didot là mọt Mordern Serif typeface)

    Loại cuối cùng của dòng Serifs là Slab Serif. Loại này có đặc điểm không có độ tương phản giữa độ dầy các đường nét (không có nét dầy, nét mỏng hay thanh đậm) và Serif của nó thì dầy và có dạng chữ nhật với chiều rộng cố định. Hình dạng cơ bản của các kí tự có các điểm tương đồng gần giống những font San Serif.

    [​IMG]
    (American Typewriter là một Slab-Serif typeface)

    Sans-Serif

    Sans-Serif được gọi như vậy vì đây là các typeface được làm thiếu đi phần Serif (chân) trong mỗi chữ cái (Sans là giới từ không). Các Sans-Serif thường có diện mạo hiện đại hơn so với các font Serifs. Typeface Sans-Serif được tạo ra vào cuối thế kỷ 18.

    [​IMG]
    (Delicious là một Sans-Serif typeface)

    Có 4 loại Sans-Serif Typeface cơ bản đó là: Grotesque, Neo-Grotesque, Humanist (cái này giống của Old Style Serifs), và Geometric.Grotesque được tạo ra sớm nhất, và nó gồm các fonts như Franklin Gothic và Akzidenze Grotesk. Những typeface này thường có letterform (dạng form chữ) gần giống với các Serifs bỏ đi Serif (chân).

    [​IMG]
    (News Gothic là một Grotesque San-Serif typeface)

    Neo-Grotesque typeface bao gồm một số các fonts phổ biến nhất. MS Sans Serif, Arial, Helvetica và Univers tất cả đều là Neo-Grotesque, chúng có bề ngoài nhìn tương đối bằng phẳng khi so sánh với Grotesque.

    (* Các bạn có thể phân biệt bằng cách nhìn vào các nét kết thúc mỗi chữ cái (các fininal) so với mặt phẳng ngang thường được tạo một góc nghiêng trong khi các neo thì làm cho nó góc bằng phẳng hơn bằng việc căng ngang các finial như ta so sánh chữ e, s, t sẽ tha được điều này dễ dàng)

    [​IMG]
    (Helvetica là một Neo-Grotesque Sans-Serif typeface)

    Humanist typefaces bao gồm Gill Sans, Frutiger, Tahoma, Verdana, Optima và Lucide Grande, chúng nhìn có vẻ thư pháp (Calligraphic) hơn những Sans-Serif khác, chúng có vẻ phổ biến và dễ đọc hơn (vì sự phổ biến của nó trong rất nhiều trang web). Các font này mang tính thư pháp nhiều hơn các Sans-Serif khác, đồng nghĩa nó có nhiều sự biến thể hơn trong độ rộng các dòng chữ.

    ( * Các bạn lại để ý sự khác nhau giữa các finial sẽ là sự khác biệt nhiều nhất ở các Sans-Serif , với các Neo-Grotesque và các Grotesque, Humanist có finial khác hẳn luôn, ta thấy nếu bo chữ lại trong một khung chữ nhật (form) thì những finial của các Humanist chẳng nghiêng góc mà cũng chẳng vuông góc mà chạy thẳng ngang các form tạo nên độ vuông vắn và đồng đều hơn giữa các chữ cái, vì vậy trông nó có vẻ khá đồng bộ và dễ đọc một cách tương đối, nhưng theo mình thì Neo nhìn vẫn có vẻ gì đó quyến rũ hơn)

    [​IMG]
    (Gill Sans là một Humanist Sans-Serif typeface)

    Cuối cùng là Geometric Sans-Serif làn những font có dạng dựa trên cấu trúc hình học (Geometric) của chúng. Và hầu như các chữ “O” hầu hết xuất hiện dưới dạng hình tròn, và chữ “a” thì rất đơn giản, chỉ là một vòng tròn với một nét thẳng dọc. Việc sử dụng làm Body copy ( phần chữ chính của bất kì cái gì sử dụng văn bản) được sử dụng ít nhất, và nó cũng là dòng Sans-Serif hiện đại nhất, như một quy luật chung.

    (* Cái này thì dễ hơn nhiều ạ , vì chữ a của nó với mấy chữ e, G toàn được dụng lên từ 1 hình tròn cơ bản , nhìn đồng bộ và hiện đại hơn mấy e kia ạ, cũng chẳng có nhiều nét quá, nói chung chúng được làm rất tối giản nhưng dễ dàng ,cứ thấy chữ a và chữ u thì biết ạ, và chữ t nữa)

    [​IMG]
    (Futura là một Geometric Sans-Serif typeface)


    Script

    Script được xây dựng dựa trên chữ viết tay (handwritting), và letterform (form chữ) thì rất đa dạng (fluid ý nói là dạng lỏng, có nghĩa không cố định). Có 2 dòng Script phổ biến nhất gọi là FormalCasual ( Lịch sự và Thông thường). Formal làm gợi nhớ những mẫu viết tay phổ biến ở thế kỷ 17 và 18, một vài Script được dựa trực tiếp từ những mẫu viết tay của các Chuyên gia (Master) như George Snell và George Bickham, và nó có những sáng tạo cũng rất hiện đại như Kuenstler Script chẳng hạn. Chúng rất phổ biến với các in ấn thanh lịch và sang trọng , không phổ biến để làm Body Copy (phần chữ chính).

    [​IMG]
    (Snell Roundhand là một Formal Script typeface)

    Casual Script thì gần với các mẫu viết tay hiện đại hơn, và nó được tạo ra vào khoảng giữa thế kỷ 20. Nó trông kém trang trọng hơn, và thường được tạo ra với những đường nét đậm và mạnh bạo, hay là dùng những nét như nét cọ để trông giống với nét cọ viết. Loại này có Mistral và Brush Script.

    [​IMG]
    ( Brush Script là một Casual Script typeface)

    Display

    Dislay có lẽ là thể loại rộng nhất và cũng là thể loại có nhiều biến thể nhất. Đặc trưng quan trọng nhất của nó là không phù hợp với Body Copy, nhưng được dùng nhiều để gây sự chú ý tời người đọc và làm tiêu đề. Display typeface có thể là Formal hoặc Casual, hoặc Informal (không trang trọng) và có thể có nhiều trạng thái (hay cảm xúc : Mood). Chúng thường được nhìn thấy trong các thiết kế in ấn, nhưng trở nên phổ biến hơn nữa với việc được sử dụng trong những trang web.

    Cũng trong các Display typeface có thể kể đến là Blackletter typeface : là kiểu chữ gốc được sử dụng đầu tiên trong in ấn. Kể từ đó trở đi, các font có thể đọc dễ dàng hơn dần được phát triển.

    [​IMG]
    (Cup and Talon là một Display typeface)

    Dingbats và Specialty Typefaces.

    Dingbats là typeface chứa những kí tự (symbols) và hình trang trí (ornaments) thay thế những chữ cái, Wingdings có thể là một trong những typeface nổi tiếng nhất, dù giờ đây có hàng nghìn font khác gần giống nó được tạo ra.

    [​IMG]
    (Đống chữ này là JELLODINGS)


    MỘT SỐ THUẬT NGỮ KHÁC

    Proportional vs Monospaced


    Với những Proportional Typefaces (có phối cảnh), các khoảng cách giữa các kí tự được tạo ra phụ thuộc vào độ rộng tự nhiên của chữ cái. Chữ “I” thì chiếm ít khoảng trống hơn là chữ “m” . Times New Roman là Proportional typeface. Trong Monospaced mỗi kí tự chiếm một khoảng bằng nhau, những kí tự hẹp hơn có nhiều khoảng trống xung quanh hơn so với những kí tự khác. Courier New làm một ví dụ của Monospaced typeface.

    [​IMG]
    (Adobe Calson là font Proportional , Courier New is Monospaced)

    Mood

    Mood (là tâm trạng, hay là khí sắc) là một phần quan trọng của typeface, thể hiện một phần quan trọng của typeface sẽ “trông” như thế nào. Thông thường người ta chỉ hay dùng Formal Informal (trang trọng và thông thường), Classic/traditional (cổ điển, truyền thống), Light/Dramatic (nhẹ nhàng/ sâu sắc) Một vài typeface có khí sắc rất riêng biệt và rõ ràng. Ví dụ Times New Roman rất truyền thống so với các font khác, vậy nên thường sử dụng trong các giầy tờ liên quan đến kinh doanh. Venada thì khác hẳn, nó mang sắc thái rất hiện đại.

    Một vài typeface khác lại rất linh hoạt, nó có thể truyền đạt hầu hết các cảm xúc dựa trên nội dung và những typeface khác mà nó kết hợp cùng trong đoạn văn bản. Helvetica là một trong những font dạng đó (* Helvetica là typeface hiện đại và huyền thoại, nhất là ở Mẽo)

    [​IMG]
    (Dễ dịch quá :D)

    Weights and Styles

    Về tầm chung của typeface, bạn sẽ tìm được nhiều hơn một Style hay Weight. Weights được biết đến bởi các từ ngữ: light, thin, regular, medium, bold, heavy, hoặc black. Mỗi loại đề cập đến độ mỏng và dầy của từng đường nét làm nên chữ cái.

    [​IMG]

    Có 3 style tổng quan mà bạn sẽ tìm thấy hầu hết ở các typefaces: Italic, Oblique, và Small Caps. Small caps thường được sử dụng cho tiêu đề hoặc đề mục. Để thêm vào sự khác biệt trong việc sử dụng một font duy nhất. (* Dịch thế này hơi tối nghĩa, nhưng bản chất small caps là những chữ in hoa nhưng viết với chiều cao = chữ thường (lowercase), và thường chỉ fonr mua tiền xịn xịn mới có :3 ).

    Italic Oblique thường bị dùng lộn xộn hoặc thay thế cho nhau, nhưng đây thực tế là 2 Style riêng biệt. Oblique chỉ đơn giản là dạng xiên của các kí tự thông thường. Bạn có thể dùng công cụ “distort” trong Photoshop, mặc dù thỉnh thoảng một vài font Oblique riêng biệt có chứa đựng bên trong một typeface. Italics cũng có dạng nghiêng như là Oblique, nhưng thực ra có một số kí tự đặc biệt, với những Letterform riêng.

    [​IMG]
    (*Chữ Adobe Calson dạng Small Cap, bên dưới là dạng Italic, Regular, và Oblique)

    GIẢI PHẪU TYPEFACE (ANATOMY TYPEFACE)

    Trang này có hầu như tất cả về giải phẫu
    http://typedia.com/learn/only/anatomy-of-a-typeface/


    [​IMG]
    (3 đường cơ bản nhất của Typeface)

    Ảnh trên chỉ ra sự khác biệt của ba đường chỉ dẫn cơ bản hiện diện trong một typeface. Đường Baseline là một đường vô hình mà tất cả các kí tự đứng trên nó. Những kí tự dạng vòng cung (hoặc tròn) thỉnh thoảng lại ở dưới đường Baseline một chút, và các Descender luôn luôn nằm dưới đường Baseline. Một type face thì thường sẽ có một đường Baseline đặt sẵn.

    Đường Meanline là đường chỉ chiều cao của hầu hết các kí tự Lowercase của một Typeface, và là một đường dựa trên kí tự “x”, nếu các kí tự Lowercase có các chiều dài khác nhau. Đây cũng là bắt nguồn của cụm từ : “x-height”. Đường Cap Height ở giữa những kí tự Lowercase và đỉnh của các Uppercase.

    [​IMG]

    Stem: là đường thẳng đứng chính của bất kì kí tự nào, bao gồm cả đường chéo chính, nó có thể là điểm neo của kí tự.

    Bar: là một phần nằm ngang, thỉnh thoảng nó được gọi là Arms.

    Bowl là một phần cong của kí tự cái mà được tạo ra ở khoảng trống bên trong kí tự, phần bên trong của Bowl là một cái Counter.

    [​IMG]

    Ascender là một phần bất kì mà nằm trên Meanline, như là phần chính của các chữ “d”, “h”, và “b”.

    Descender là những phần ở bên trên của các chữ Lowercase (chữ thường , Uppercase: chữ In), như là “p”, “q”, “g”.

    [​IMG]

    Serif là phần phát triển thêm được thêm vào ở cuối các nét. Một số các Typeface có các Serif rất rõ ràng, trong khi có một số khá khó để phân biệt.

    [​IMG]

    Aperture của một kí tự được đề cập là chỗ mở của ở phần dưới kí tự. Nhưng là ở “A” hoặc “m”.

    Ear là một phần trang trí thêm vào của kí tự, như là để làm nổi bật cho chữ “g”.

    Hairlines là một phần mỏng nhất của Serif typeface.

    [​IMG]

    Crossbar là một nét nằm ngang, được thấy ở chữ “A” và chữ “H”

    Terminal duy nhất chỉ có ở cái font Serif, ở cuối những đường nào mà không có Serif.

    Loop được thấy ở các chữ “g”

    [​IMG]

    Spur là một phần nhỏ xíu từ những nét chính, như ở chữ “G” này.

    Link là đường nối giữa chữ “g”.

    Spine là nét cong giữ chữ “S”.

    [​IMG]

    Tail thỉnh thoảng trang trính những nét ở phần thấp, như là ở chữ “R”.

    Finial là phần thon nhỏ ở đoạn cuối của những nét chính.

    Shoulderl là bất kì một đường cong nào bắt nguồn từ Stem.

    Cám ơn các bạn.

    ...
    Chỉnh sửa lần cuối: 6/9/14
    Kanzz.Elf, pro_dragon, Fát9 người khác thích bài viết này.
  2. vietvo

    vietvo Thành viên cấp 1

    Rất có ích Thanks bạn
  3. Fát

    Fát Thành viên cấp 1

    thanks bài viết khá chi tiết, rất bổ ích
  4. hatdolato

    hatdolato Mới đăng kí

    Em cũng đang tìm hiểu về Typography. Muốn góp ý với bác 1 chút là: Humanist và Oldstyle là 2 loại khác nhau ạ. 2 Type Classification này gần giống nhau nhưng nhìn chữ " e" là thấy sự khác biệt rõ nhất. Đại diện là 2 Type Face: Centaur ( Humanist) và Garamond ( Oldstyle)

Ủng hộ diễn đàn